Bệnh
Alzheimer tâm lý dị thường
Để chẩn đoán là AD, các
thiếu hụt này phải gây ra những tổn thiệt đáng kể về chức năng nghề nghiệp hoặc
xã hội và tạo ra sự khác biệt rõ nét so với trước đây.
Bệnh
Alzheimer là một dạng thường gặp nhất của mất trí, chiếm khoảng 5-10% số người
trên 65 tuổi và ít nhất 20% số người trên 80 tuổi (Roca và cs. 1998). Mặc dù
vậy, bệnh không chỉ gặp ở những người cao tuổi. Người mà Alois Alzheimer lần
đầu tiên mô tả bệnh vào những năm đầu thế kỷ 20 là ở một phụ nữ trung niên.
DSM-IV-TR định nghĩa AD là một bệnh tiến triển có các đặc điểm sau (thường được
tóm tắt bằng 4 chữ A):
Mất nhớ
(amenesia).
Mất
ngôn ngữ (aphasia).
Mất vận
động (apraxia): mất khả năng thực hiện các vận động mặc dù chức năng vận động
vẫn còn được bảo toàn.
Mất nhận
thức (agnosia): mất khả năng nhận thức được đồ vật mặc dù chức năng cảm giác
vần còn bảo toàn.
Rối
loạn chức năng điều hành (ví dụ, chức năng lập kế hoạch, tổ chức, suy diễn,
khái quát).
Để chẩn
đoán là AD, các thiếu hụt này phải gây ra những tổn thiệt đáng kể về chức năng
nghề nghiệp hoặc xã hội và tạo ra sự khác biệt rõ nét so với trước đây. Mất nhớ
tiến triển, điển hình là trí nhớ hiện tại bị rối loạn trước, sau đó là trí nhớ
xa- trí nhớ được xem như là bền vững vì được luyện tập củng cố theo thời gian.
Tuy nhiên khi bệnh tiến triển, người bệnh cũng quên cả những số liệu xa chứa
đầy cảm xúc. Lúc đầu là quên những sự kiện vẫn xảy ra, tiếp đến là quên cả
những công việc thường ngày và sau là thậm chí quên cả người trong gia đình.
Một hiện tượng khác cũng rất thường thấy là khó tìm từ phù hợp. Trong giai đoạn
cuối cùng, AD phá hỏng chức năng giao tiếp.
Ở những
thời kỳ đầu của AD, người bệnh còn đủ khả năng nhận ra được những khuyết tật
của mình. Tuy nhiên cùng với sự tiến triển của bệnh, người bệnh cũng mất dần
khả năng này. Họ cũng mất hết mọi cảm giác về bản thân và cuộc sống của họ phải
hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc của người khác.
Các
hiện tượng thường gặp khác là: tính nghi kị, paranoia và hoang tưởng. Cá nhân
có thể có những thay đổi cảm xúc thất thường bao gồm cả tức giận, bực bội cũng
như kích động. Lú lẫn cũng là hiện tượng thường gặp, nhất là về đêm khi những
điểm tựa giúp cá nhân định hướng thời gian và vị trí ít đi và oxy cung cấp cho
não cũng bị giảm. Mặc dù tất cả các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ đều nhằm tối đa
hoá khả năng độc lập của cá nhân và duy trì họ ở lại trong căn nhà của mình song đến một lúc nào đó những người
này vẫn phải vào điều trị nội trú. Đến lúc đó, họ đã lú lẫn rất nhiều về thời
gian, không tự kiểm soát được bản thân và đáp ứng rất kém với môi trường.
Từ lúc
được chẩn đoán là AD cho đến khi người bệnh bị chết có thể kéo dài đến 20 năm
hoặc hơn. Tuy nhiên khoảng thời gian thường thấy là 4-8 năm. Trong thời gian
này, cá nhân trải qua các giai đoạn:
Nghi
ngờ có sa sút trí tuệ: cá nhân bắt đầu có những hành vi “lạ thường” và những
vấn đề kéo theo.
Sa sút
trí tuệ mức độ nhẹ: sa sút trí tuệ là rõ ràng, tuy nhiên cá nhân vẫn có thể tự
chăm sóc được.
Sa sút
trí tuệ mức độ vừa: cần phải có sự giúp đỡ để người bệnh thực hiện được những
việc hàng ngày, những hành vi “có vấn đề”, ví dụ lạc đường, xâm kích đã thể
hiện rõ.
Sa sút
trí tuệ mức độ nặng: cá nhân đã trở nên yếu ớt nhiều hơn, thậm chí suốt ngày
chỉ có giường và ghế.
Bệnh
Alzheimer không ảnh hưởng ngay lập tức tới cá nhân. Trong số những người bị
bệnh, nữ chiếm tỷ lệ cao (Parker và Lawton, 1990). Có thể chăm sóc người bị sa
sút trí tuệ ngay tại nhà của họ thậm chí cho đến khi bệnh đã nặng. Những người
này thường trải qua stress nặng.
Nguyên
nhân Alzheimer
Các yếu
tố di truyền
Nếu 1
người bị bệnh Alzheimer thì gần 50% số người có quan hệ huyết thống cấp I của
bệnh nhân cũng sẽ bị bệnh (Korten và cs. 1993). Các gen nằm ở nhiễm sắc thể số
14, 21 và đặc biệt, gen apoE4 ở nhiễm sắc thể số 19 có liên quan đến AD. ApoE4
là một trong một số dạng, hoặc alen của gen apoE. Những dạng khác là apoE2,
apoE3. Những người có 2 gen apoE4 có nguy cơ mắc AD cao gấp 8 lần so với người
có 2 alen E3. Gen apoE4 có thể làm bệnh khởi phát sớm hơn đến 17 năm (Warwick
Daw và cs. 2000). Tuy nhiên trong số những người bị bệnh chỉ có khoảng 40% là
có gen này và cũng có nhiều người có gen này nhưng không bị bệnh. Do vậy đây
mới chỉ có thể là yếu tố nguy cơ chứ
chưa phải là yếu tố gây bệnh. Một điều quan trọng nữa cũng cần chú ý, đó là
nguy cơ mắc AD đối với gen đã biết là rất thấp: Alzheimer gia đình chiếm chưa
đến 1% tổng số các trường hợp, chưa đến 1 nửa số trường hợp bị bệnh có tiền sử
gia đình (Owen và cs. 1994).
Hiện
nay trong một số đồng nghiệp của tôi đã tổ chức một số nhóm tiêu điểm nhằm thăm
dò những yếu tố liên quan đến chất lượng
cuộc sống của những người sa sút trí tuệ
nhẹ và vừa. Kết quả khá lí thú ở chỗ không chỉ người trong nhóm nói gì mà cả những gì họ không nói. Dưới đây là một
số trích dẫn từ nhóm tiêu điểm. Các thành viên của nhóm kể cho chúng tôi nghe
những gì làm tăng thêm hoặc giảm sút chất lượng cuộc sống của họ. Những trích
dẫn này dường như không có gì đặc biệt. Nó có thể gặp ở bất kỳ ai và ở bất kỳ
độ tuổi nào. Điều quan trọng là những gì mà thành viên trong nhóm không nói chính
là sự suy giảm trí nhớ đã làm cho chất lượng cuộc sống của họ tồi tệ đi. Một số
người nói rằng điều đó có thể trong tương lai. Tuy nhiên nó đã trở thành chủ đề
liên quan tới vấn đề hiện tại. Mặc dù những khả năng nhận thức của con người có thể tồi tệ song không phải
lúc nào chúng cũng ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống hiện tại. Song điều đó
không có nghĩa là giảm sút trí nhớ không phải là vấn đề đối với những người có
sa sút trí tuệ- và một số người có thể trở nên trầm cảm nặng nề do giảm sút các khả năng. Tuy vậy
cũng có rất nhiều thứ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống người bệnh nhưng không
thuộc về các khả năng nhận thức.
Các quá
trình thần kinh
Bệnh
Alzheimer là do sự thoái hoá sớm các hệ
thống não. Sự thoái hoá mang tính tiến triển và quá trình AD có thể được đánh
dấu trên bản đồ não. Thông thường các vấn đề khởi đầu từ vỏ phía trong sau đó
lan sang hồi cá ngựa và lan dần sang các vùng khác, cụ thể là lên vỏ não. Do
các nơron vùng cá ngựa bị thoái hoá nên nó kéo theo sự suy giảm trí nhớ ngắn hạn
và khả năng thực hiện những công việc hàng ngày. Khi bệnh lan truyền đến vỏ
não, nó bắt đầu ảnh hưởng đến ngôn ngữ.
Nguyên
nhân của những thay đổi này gồm cả 2 phía: cấu trúc- sự xuất hiện và phát
triển các mảng
beta amyloid (beta amyloid plaques) và các mảng tơ thần kinh
(neurofibrillary tangles) và một số chất dẫn truyền thần kinh. Beta amyloid
được tạo ra do sự phân huỷ amyloid precusor protein (APP) nằm ở các màng tế bào
nơron. Đây cũng là một đại diện trong đại gia đình các protein bao quanh tế bào
thần kinh, tạo thành hàng rào kiểm soát chất ra vào. Sự phân huỷ APP tạo ra các
mảnh beta amyloid, những mảnh này có thể chồng lên nhau tạo thành mảng amyloid
làm cho các tế bào thần kinh bị chết. Nguyên do chính là do các mảng này đã tạo
ra các khe nhỏ trên màng tế bào nên dòng canxi qua các kênh này đã không được
kiểm soát (Sinha và cs. 2000). Các mảng tơ thần kinh với các sợi xoắn kép được
cấu tạo bởi protein có tên gọi tau. ở những cơ thể khoẻ mạnh, sự kết hợp này
đóng vai trò bình ổn các vi mạch đưa dinh dưỡng và các phân tử từ thân tế bào
đến đầu mút axon. Còn ở người bệnh AD, tau đã bị thay đổi về hoá học, do vậy nó
làm cho tau xoắn với các vi sợi để tạo thành những mảng tơ thần kinh. Theo đó,
sự đổ vỡ của hệ thống vận chuyển đã làm rối loạn kết nối giữa các tế bào thần
kinh và làm cho chúng bị tiêu huỷ.
Một
trong những chất dẫn truyền thần kinh có vai trò quan trọng trong AD chính là
acetylcholine: ở người bệnh AD, acetylcholine giảm đến 90% (Whitehouse và cs.
1982). Acetylcholine tham gia vào quá trình trí nhớ và ảnh hưởng đến hoạt động
của nơron của hồi cá ngựa và vỏ não, các chất dẫn truyền thần kinh khác cũng có
thể tham gia vào quá trình này. ở một số người bệnh AD, nồng độ serotonin và
noradrenalin thấp hơn bình thường, do vậy chúng cũng có thể góp phần vào các
rối loạn giác quan và hành vi xâm kích. Các hormon này cũng có thể liên quan
đến những rối loạn tâm lí khác trong những kỳ đầu của AD như trầm cảm và lo âu.
Các yếu
tố môi trường
Nguy cơ
mắc AD một phần là do các yếu tố môi trường mặc dù chưa xác định được chính xác
vai trò của chúng trong nguyên nhân. Một trong những yếu tố nguy cơ khá rõ
chính là vết thương não trong tiền sử (Mc Powell, 2001). Giả thuyết trước đây
về nguy cơ phơi nhiễm do hàm lượng nhôm tăng cao đã không còn được ủng hộ, mặc
dù ở Anh, việc sử dụng nước ô nhiễm nhôm có thể dẫn đến giảm sút nhận thức ở
một số ít người (Altmann và cs. 1999). Hút thuốc lá được xem là yếu tố bảo vệ
mặc dù có người trong số này tiền sử gia đình có người bị mất trí. Những yếu tố
bảo vệ khác bao gồm thể dục, dùng lượng vừa phải rượu vang đỏ, chế độ ăn có
vitamin B6, B12 và axid folic cao. Nhiều thuốc cũng có tác dụng bảo vệ bao gồm
các thuốc non-steroid, các thuốc chống nôn và liệu pháp thay thế oestrogen ở
phụ nữ mãn kinh.
Điều
trị bệnh Alzheimer
Can
thiệp dược lí
Tăng nồng độ acetylcholine:
Nếu
giảm acetylcholine gây ra AD thì tăng acetylcholine đến nồng độ thích hợp có
thể phục hồi được các triệu chứng của bệnh. Các thuốc được điều chế nhằm ngăn
ngừa acetylcholinesterase phân huỷ acetylcholine ở khe xinap và tăng khả năng
tái hấp thu ở thụ thể sau xinap (xem chương 3). Các chất ức chế
acetylcholinesterase như Donepizil (Aracepx) nhìn chung có thể giúp cải thiện
nhận thức trong một thời gian ngắn và dường như nó kìm hãm hơn là ngăn ngừa suy
giảm nhận thức (Rogers và cs. 1998). Rất tiếc là nhiều người dùng thuốc lại có
tác dụng phụ, trong số đó chủ yếu là rối loạn đường tiêu hoá và có đến 35% số
người tham gia dùng thử thuốc đã bỏ cuộc (Rogers và cs. 1998). Bên cạnh đó,
không phải tất cả mọi người đều đáp ứng với điều trị và điều này vẫn chưa giải
thích được (Forette & Kockwood 1999).
Phương
pháp thứ hai để làm tăng nồng độ acetylcholine là uống nicotine nhằm tăng tiết
acetylcholine. Thực nghiệm cho thấy bằng cách này đã cải thiện được trí nhớ ở
khỉ già (Buccafusco and Jackson 1991). Những người bị AD cũng có sự cải thiện
một số khía cạnh về nhận thức và cảm xúc sau khi tiêm nicotine. Tuy nhiên chưa
có đủ cứ liệu tin cậy chứng tỏ hiệu quả của nicotne trong điều trị AD.
Ức chế sự phát triển amiloid:
Một
cách tiếp cận dược lí hoàn toàn khác đó là tìm cách phong toả sự sản sinh beta
amyloid trong não thông qua việc sử dụng vacxin. Nghiên cứu thử trên chuột cho
thấy vacxin có được một số mức độ bảo vệ, chống tạo mảng (Schenk và cs., 1999)
và bước đầu cho thấy tiêm một loại vacxin vẫn bảo đảm an toàn trên người. Hơn
thế nữa, Weiner và cs.(2000) đã phát hiện thấy đáp ứng tuy nhỏ nhưng rất quan
trọng khi dùng trên chuột bằng đường nhỏ mũi: cách điều trị này có thể được
chấp nhận trong khoảng thời gian dài (thậm chí suốt đời).
Tiếp
cận tâm lí
Can
thiệp tâm lí nhằm cải thiện tối đa chất lượng cuộc sống và các chức năng tâm lí
trong diễn tiến của bệnh. Các nhóm hỗ trợ gồm những người khác nhau với những
vấn đề giống nhau có thể cải thiện hỗ trợ các chiến lược đối phó trong những
giai đoạn sớm của AD (Yale, 1995). Trong
những giai đoạn muộn thường có 3 cách tiếp cận trị liệu được sử dụng.
Định
hướng hiện thực
Định
hướng hiện thực (RO - Theo cách gọi của Holden & Woods, 1995) gồm trang bị
cho người già có dấu hiệu lú lẫn những thông tin phù hợp giúp họ hiểu cẩn thận
hơn về thế giới xung quanh. Có 2 dạng RO: RO 24 giờ nhằm tạo ra một môi trường
với nhiều chỉ dẫn giúp cá nhân định hướng được thời gian, không gian và bản
thân: những chiếc đồng hồ và lịch rất to; các chỉ dẫn nhắc nhở tên gọi của cơ
sở hoặc khu điều trị tên gọi các phù
hiệu v.v. . Sự can thiệp xã hội đối với cá nhân cũng được xây dựng nhằm cung
cấp những thông tin thích hợp “xin chào ngài Jones. Tom ở đây… Bây giờ bên ngoài
khá lạnh, cũng giống như tháng giêng mọi khi…”. Các câu đơn giản, đặc hiệu,
nhắc lại những thông tin trong ngày hoặc dùng để giao tiếp. Lớp RO gồm những
nhóm nhỏ, gặp nhau trong khoảng từ 30-60 phút. Mặc dù có tên gọi như vậy nhưng
buổi học tiến hành ở phòng tiện nghi, có các ghế mềm với một bầu không khí thư
giãn. Lựa chọn người tham gia dựa theo khả năng, các buổi học gồm tranh luận và
cung cấp thông tin, thúc đẩy trí nhớ bằng nhiều cách trợ giúp với các kênh khác
nhau: từ báo chí, tranh cho đến trò chuyện v.v…
Tổng
quan 21 buổi thử nghiệm RO, Holden và Wood (1995) đưa ra kết luận rằng kết quả
đạt được tuy nhỏ nhưng rất quan trọng trong định hướng, so với những trường hợp
không được trị liệu hoặc trị liệu không có thiết kế trước. Dường như kết quả
trong những lĩnh vực khác như nhận thức hay kĩ năng hành vi cũng rất khiêm tốn
mặc dù Reever & Ivison (1985) có thông báo rằng đã đạt được một số tiến bộ
về khả năng tự kiềm chế sau khi có sự kết hợp giữa lớp học và RO 24 giờ.
Dù có
kết quả cuối cùng như thế nào đi chăng nữa thì RO cũng có những khó khăn nhất
định đối với những người định áp dụng, cụ thể là đối với những trường hợp cần
nhắc nhở cho bệnh nhân ở những thông tin để gây stress. Ví dụ, rất nhiều người
bệnh AD đã quên đi cái chết của người bạn đời và do lú lẫn, họ bắt đầu tìm
kiếm, chờ đợi và yêu cầu được gặp người đã chết. Theo RO thì người chăm sóc
phải nói cho bệnh nhân rằng bạn đời của họ đã chết. Và đây lại có thể là tin
xấu, gây stress cho bệnh nhân. Rất tiếc là người bệnh sau đó lại quên và tiếp
tục hỏi, tìm bạn đời đòi người chăm sóc phải phủ nhận thông tin rằng bạn đời
của họ đã mất: chu trình như vậy lại tiếp tục gây stress cho cả người bệnh và
người chăm sóc.
Trị
liệu hiệu lực
Để khắc
phụ những nhược điểm của RO, Feil (1990) đã đưa ra một dạng trị liệu khác trị
liệu ‘hiệu lực’. Trị liệu này bao gồm lắng nghe và chú ý đến tất cả những sự lo
sợ của người bệnh, dành thời gian để hiểu cặn kẽ những vấn đề của họ và làm cho
những vấn đề này có “hiệu lực” bằng cách
đánh giá những gì họ cần phải nói. Những cuộc trò chuyện như vậy cần phải tạo
cơ hội để xác định và làm thay đổi những niềm tin sai lầm, tuy nhiên đây chưa
phải là yếu tố cốt lõi của tiếp cận này. Tiêu điểm là tập trung vào nghe và đáp
lại các phản ứng cảm xúc hơn là nội dung
thực những gì họ nói.
Trong
trị liệu nhóm, các nhóm nhỏ có thể được bố trí để thảo luận về những cảm giác
khi diễn tả như tức giận, cách li hoặc mất mát (Bleathman & Morton, 1992).
Feil (1990) cho rằng bằng cách từ ngữ hoá trí nhớ và suy nghĩ và hiệu lực hoá
bởi nhóm, cá nhân có được cảm giác được chấp nhận. Phương pháp này nhấn mạnh
đến sự cần thiết phải giải quyết những xung đột chưa được giải quyết. Nó cũng
có những thành phần của trị liệu tâm lí- động thái. Khi trị liệu nhấn mạnh đến
sự đồng cảm và chấp nhận quan điểm của
cá nhân về thế giới xung quanh và mang những khía cạnh nhân văn rõ rệt. Tuy
nhiên cũng chưa có một nghiên cứu nghiêm chỉnh nào nhằm đánh giá hiệu quả của
phương pháp. Những gì có được chủ yếu là dựa trên cơ sở phân tích lịch sử trường hợp không kiểm soát được. Trong một
nghiên cứu Feil (1990) thông báo rằng đã hạn chế được những cơn khóc lóc, đi
lại lộn xộn sau đợt trị liệu hiệu lực, tuy nhiên không có cứ liệu về hiệu quả
bền vững hoặc những lợi ích lớn hơn so với các tiếp cận khác.
Liệu pháp
hồi tưởng
Có 3
dạng liệu pháp hồi tưởng (Mc Malion & Phuclick, 1964). Hồi tưởng dạng câu
chuyện bao gồm tái hiện những sự kiện dễ chịu. Nhìn lại cuộc đời bao gồm tái
hiện và thảo luận trí nhớ cả những sự kiện tốt và xấu, những sự kiến chủ yếu từ
ý thức. Cuối cùng là hồi tưởng hào quang bao gồm tập hợp nhiều lần những tình
huống gây đau khổ hoặc thất vọng. Nhìn lại cuộc đời và hồi tưởng hào quang được
cho là có tác dụng hỗ trợ giải quyết xung đột trong quá khứ.
Liệu
pháp hồi tưởng dựa trên mô hình phát triển của Erikson (1980) trong đó nhìn lại
cuộc đời thường xuất hiện về cuối cuộc đời. Nhìn lại cuộc đời nói chung có thể
là tích cực hoặc tiêu cực. Trong liệu pháp cá nhân, nhà trị liệu trợ giúp cá
nhân làm sáng tỏ hơn và hiệu quả hơn sự phân tích bản thân. Trong liệu pháp
nhóm, các nhóm nhỏ xem xét cuộc sống của các thành viên thông qua việc sử dụng
những gợi ý như các bức ảnh cũ, các buổi phát thanh hoặc truyền hình v.v… Cũng
như đối với liệu pháp hiệu lực, chưa có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của liệu pháp
hồi tưởng. Những người tham gia chủ yếu thích được tham gia vào nhóm hồi tưởng.
Cũng có một số thông báo về gia tăng tự
đánh giá cũng như thoả mãn cuộc sống. Sau khi tham gia vào nhóm (ví dụ, Kovach,
1990). Tuy nhiên chưa có nhiều cứ liệu
chứng tỏ rằng nó hiệu quả hơn các hoạt động nhóm khác.
Thay
đổi hành vi
Mặc dù
những cách tiếp cận quan sát được (operant) nhằm thay đổi hành vi ở những người
già lú lẫn tạo ra được sự chú ý nhất định song chưa có nhiều thông báo về việc
sử dụng cũng như hiệu quả của nó. Tuy vậy những nghiên cứu đã sử dụng qui trình
này cho thấy nhìn chung là có hiệu quả. Ví dụ, Burgio và cs. (1988) đã ứng dụng
chương trình nhằm gia tăng việc sử dụng toilet hợp lí và giảm thiểu mức độ
không tự chủ. Chương trình này bao gồm hỏi thường xuyên, đều đặn xem các cá
nhân có muốn vào toilet hay không và tiếp đó là củng cố việc sử dụng toilet.
Chương trình đã đạt được hiệu quả rõ rệt mặc dù các cá nhân chưa tự mình chủ
động dùng toilet. Nhìn chung các thành viên tham gia chương trình đã biết tăng
cường sử dụng hệ thống trợ giúp. Các chương trình khác cùng làm giảm được những
hành vi đi lang thang, định hình và tăng tương tác, vận động xã hội (xem Woods
& Roth, 1997). Theo Woods & Roth, thành tố cơ bản để đảm bảo cho các
qui trình quan sát được đối với người già có thể không phải là “phần thưởng”
cho những hành vi làm đúng. Rất có thể là việc sử dụng hệ thống chỉ dẫn trợ
giúp hành vi đóng vai trò quan trọng hơn.
Một yếu
tố rất cần thiết nữa trong việc chăm sóc người già sa sút trí tuệ là phải hạn
chế đến mức tối thiểu những yêu cầu mang tính nhận thức đối với họ (Woods
&Brid, 1999). Khi đối thoại phải dùng những câu ngắn, luôn nhắc lại. Có thể
dùng thêm những trợ giúp tương thích, ví dụ như tranh ảnh. Tuy nhiên cũng cần
tránh những trợ giúp gây phân tán chú ý với thông tin không tương thích. Các
trợ giúp cần phải đơn giản và trực tiếp. Ví dụ, một mũi tên chỉ vào hình toalet
được dán lên cửa toalet có thể hiệu quả hơn hình một người phụ nữ hay nam giới
như thường thấy. Ngay cả những người sa sút trí tuệ mức độ vừa và nhẹ cũng cần
đến sự trợ giúp như vậy. Bất kỳ một sự trợ giúp nào cũng cần phải được hướng
dẫn và tập luyện để củng cố thông tin của trợ giúp đó. Ví dụ, mỗi khi dẫn người
bệnh ra toalet, người chăm sóc có thể nói với họ trong khi đi và chỉ cho họ
những chỉ dẫn, trợ giúp. Nếu ở nhà, phải đảm bảo an toàn ở mức độ tối đa, ví dụ
như thay lò sưởi ga bằng lò sưởi tích nhiệt v.v…
Giúp đỡ
những người chăm sóc
Chăm
sóc những người bị AD tại nhà cũng tạo ra rất nhiều căng thẳng cho những người
chăm sóc, nhất là khi mà bản thân họ
cũng thường là người già và sức khoẻ cũng có hạn chế. Một số hình thức hỗ trợ
và giúp đỡ cũng đem lại lợi ích nhất định. Những sự trợ giúp này có thể do
những người tình nguyện, dạng như Hội Alzheimer ở Anh, và những khoảng thời
gian ngắn người chăm sóc được nghỉ ngơi khi người bệnh vào viện. Ngoài ra cũng
có thể có những hình thức can thiệp
khác.
Trong
một siêu phân tích 9 nghiên cứu được thiết kế để trợ giúp những người chăm sóc
đối phó với stress, Knight và cs. (1992) đã đi đến kết luận rằng cả 2 dạng can
thiệp nhóm và các nhóm đều làm giảm cảm giác nặng nề và trầm cảm.
Gallagher
- Thomson và Steffen (1994) so sánh 2
dạng can thiệp: hành vi nhận thức và tâm lí động thái trong trị liệu những
người bị trầm cảm trong quá trình chăm sóc người thân cao tuổi. Cho đến giai
đoạn cuối cả hai dạng can thiệp đều có hiệu quả. 71% số trường hợp đã không còn
trầm cảm nữa. Tuy nhiên trị liệu động thái có hiệu quả hơn đối với những người
làm công việc chăm sóc trong khoảng thời gian ngắn. Điều này có thể là do đối
với những người mới vào vai trò người chăm sóc còn phải khám phá và tìm cách
thực hiện vai trò. Đối với những người đã có khoảng thời gian dài làm công việc chăm sóc thì việc luyện tập
các kĩ thuật đối phó stress hàng ngày sẽ có lợi hơn.
Cách
thứ 2 để giúp những người chăm sóc đối phó với stress là trang bị cho họ những
chiến lược trợ giúp họ quản trị hành vi của người thân của họ một cách hiệu quả
hơn. Ví dụ Pinkston và cs. (1998) đã chỉ ra cách thức mà những người chăm sóc
có thể quản trị được nhiều hành vi, trong đó có tự chăm sóc, xâm kích và đi
lang thang. Trên 75% số bệnh nhân có được một số cải thiện về hành vi sau khi
những người chăm sóc được tập huấn nhằm
làm giảm căng thẳng
Suu tam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét