Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

Bệnh Alzheimer tâm lý dị thường



Bệnh Alzheimer tâm lý dị thường
Để chẩn đoán là AD, các thiếu hụt này phải gây ra những tổn thiệt đáng kể về chức năng nghề nghiệp hoặc xã hội và tạo ra sự khác biệt rõ nét so với trước đây.
Bệnh Alzheimer là một dạng thường gặp nhất của mất trí, chiếm khoảng 5-10% số người trên 65 tuổi và ít nhất 20% số người trên 80 tuổi (Roca và cs. 1998). Mặc dù vậy, bệnh không chỉ gặp ở những người cao tuổi. Người mà Alois Alzheimer lần đầu tiên mô tả bệnh vào những năm đầu thế kỷ 20 là ở một phụ nữ trung niên. DSM-IV-TR định nghĩa AD là một bệnh tiến triển có các đặc điểm sau (thường được tóm tắt bằng 4 chữ A):
Mất nhớ (amenesia).
Mất ngôn ngữ (aphasia).
Mất vận động (apraxia): mất khả năng thực hiện các vận động mặc dù chức năng vận động vẫn còn được bảo toàn.
Mất nhận thức (agnosia): mất khả năng nhận thức được đồ vật mặc dù chức năng cảm giác vần còn bảo toàn.
Rối loạn chức năng điều hành (ví dụ, chức năng lập kế hoạch, tổ chức, suy diễn, khái quát).
Để chẩn đoán là AD, các thiếu hụt này phải gây ra những tổn thiệt đáng kể về chức năng nghề nghiệp hoặc xã hội và tạo ra sự khác biệt rõ nét so với trước đây. Mất nhớ tiến triển, điển hình là trí nhớ hiện tại bị rối loạn trước, sau đó là trí nhớ xa- trí nhớ được xem như là bền vững vì được luyện tập củng cố theo thời gian. Tuy nhiên khi bệnh tiến triển, người bệnh cũng quên cả những số liệu xa chứa đầy cảm xúc. Lúc đầu là quên những sự kiện vẫn xảy ra, tiếp đến là quên cả những công việc thường ngày và sau là thậm chí quên cả người trong gia đình. Một hiện tượng khác cũng rất thường thấy là khó tìm từ phù hợp. Trong giai đoạn cuối cùng, AD phá hỏng chức năng giao tiếp.
Ở những thời kỳ đầu của AD, người bệnh còn đủ khả năng nhận ra được những khuyết tật của mình. Tuy nhiên cùng với sự tiến triển của bệnh, người bệnh cũng mất dần khả năng này. Họ cũng mất hết mọi cảm giác về bản thân và cuộc sống của họ phải hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc của người khác.
Các hiện tượng thường gặp khác là: tính nghi kị, paranoia và hoang tưởng. Cá nhân có thể có những thay đổi cảm xúc thất thường bao gồm cả tức giận, bực bội cũng như kích động. Lú lẫn cũng là hiện tượng thường gặp, nhất là về đêm khi những điểm tựa giúp cá nhân định hướng thời gian và vị trí ít đi và oxy cung cấp cho não cũng bị giảm. Mặc dù tất cả các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ đều nhằm tối đa hoá khả năng độc lập của cá nhân và duy trì họ ở lại trong căn nhà  của mình song đến một lúc nào đó những người này vẫn phải vào điều trị nội trú. Đến lúc đó, họ đã lú lẫn rất nhiều về thời gian, không tự kiểm soát được bản thân và đáp ứng rất kém với môi trường.
Từ lúc được chẩn đoán là AD cho đến khi người bệnh bị chết có thể kéo dài đến 20 năm hoặc hơn. Tuy nhiên khoảng thời gian thường thấy là 4-8 năm. Trong thời gian này, cá nhân trải qua các giai đoạn:
Nghi ngờ có sa sút trí tuệ: cá nhân bắt đầu có những hành vi “lạ thường” và những vấn đề kéo theo.
Sa sút trí tuệ mức độ nhẹ: sa sút trí tuệ là rõ ràng, tuy nhiên cá nhân vẫn có thể tự chăm sóc được.
Sa sút trí tuệ mức độ vừa: cần phải có sự giúp đỡ để người bệnh thực hiện được những việc hàng ngày, những hành vi “có vấn đề”, ví dụ lạc đường, xâm kích đã thể hiện rõ.
Sa sút trí tuệ mức độ nặng: cá nhân đã trở nên yếu ớt nhiều hơn, thậm chí suốt ngày chỉ có giường và ghế.
Bệnh Alzheimer không ảnh hưởng ngay lập tức tới cá nhân. Trong số những người bị bệnh, nữ chiếm tỷ lệ cao (Parker và Lawton, 1990). Có thể chăm sóc người bị sa sút trí tuệ ngay tại nhà của họ thậm chí cho đến khi bệnh đã nặng. Những người này thường trải qua stress nặng.
Nguyên nhân Alzheimer
Các yếu tố di truyền
Nếu 1 người bị bệnh Alzheimer thì gần 50% số người có quan hệ huyết thống cấp I của bệnh nhân cũng sẽ bị bệnh (Korten và cs. 1993). Các gen nằm ở nhiễm sắc thể số 14, 21 và đặc biệt, gen apoE4 ở nhiễm sắc thể số 19 có liên quan đến AD. ApoE4 là một trong một số dạng, hoặc alen của gen apoE. Những dạng khác là apoE2, apoE3. Những người có 2 gen apoE4 có nguy cơ mắc AD cao gấp 8 lần so với người có 2 alen E3. Gen apoE4 có thể làm bệnh khởi phát sớm hơn đến 17 năm (Warwick Daw và cs. 2000). Tuy nhiên trong số những người bị bệnh chỉ có khoảng 40% là có gen này và cũng có nhiều người có gen này nhưng không bị bệnh. Do vậy đây mới chỉ có thể  là yếu tố nguy cơ chứ chưa phải là yếu tố gây bệnh. Một điều quan trọng nữa cũng cần chú ý, đó là nguy cơ mắc AD đối với gen đã biết là rất thấp: Alzheimer gia đình chiếm chưa đến 1% tổng số các trường hợp, chưa đến 1 nửa số trường hợp bị bệnh có tiền sử gia đình (Owen và cs. 1994).
Hiện nay trong một số đồng nghiệp của tôi đã tổ chức một số nhóm tiêu điểm nhằm thăm dò những yếu tố  liên quan đến chất lượng cuộc sống  của những người sa sút trí tuệ nhẹ và vừa. Kết quả khá lí thú ở chỗ không chỉ người trong nhóm nói gì  mà cả những gì họ không nói. Dưới đây là một số trích dẫn từ nhóm tiêu điểm. Các thành viên của nhóm kể cho chúng tôi nghe những gì làm tăng thêm hoặc giảm sút chất lượng cuộc sống của họ. Những trích dẫn này dường như không có gì đặc biệt. Nó có thể gặp ở bất kỳ ai và ở bất kỳ độ tuổi nào. Điều quan trọng là những gì mà thành viên trong nhóm không nói chính là sự suy giảm trí nhớ đã làm cho chất lượng cuộc sống của họ tồi tệ đi. Một số người nói rằng điều đó có thể trong tương lai. Tuy nhiên nó đã trở thành chủ đề liên quan tới vấn đề hiện tại. Mặc dù những khả năng nhận thức  của con người có thể tồi tệ song không phải lúc nào chúng cũng ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống hiện tại. Song điều đó không có nghĩa là giảm sút trí nhớ không phải là vấn đề đối với những người có sa sút trí tuệ- và một số người có thể trở nên trầm cảm  nặng nề do giảm sút các khả năng. Tuy vậy cũng có rất nhiều thứ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống người bệnh nhưng không thuộc về các khả năng nhận thức.
Các quá trình thần kinh
Bệnh Alzheimer là do sự thoái hoá  sớm các hệ thống não. Sự thoái hoá mang tính tiến triển và quá trình AD có thể được đánh dấu trên bản đồ não. Thông thường các vấn đề khởi đầu từ vỏ phía trong sau đó lan sang hồi cá ngựa và lan dần sang các vùng khác, cụ thể là lên vỏ não. Do các nơron vùng cá ngựa bị thoái hoá nên nó kéo theo sự suy giảm trí nhớ ngắn hạn và khả năng thực hiện những công việc hàng ngày. Khi bệnh lan truyền đến vỏ não, nó bắt đầu ảnh hưởng đến ngôn ngữ.
Nguyên nhân của những thay đổi này gồm cả 2 phía: cấu trúc- sự xuất hiện và phát triển  các  mảng  beta  amyloid (beta  amyloid plaques) và các mảng tơ thần kinh (neurofibrillary tangles) và một số chất dẫn truyền thần kinh. Beta amyloid được tạo ra do sự phân huỷ amyloid precusor protein (APP) nằm ở các màng tế bào nơron. Đây cũng là một đại diện trong đại gia đình các protein bao quanh tế bào thần kinh, tạo thành hàng rào kiểm soát chất ra vào. Sự phân huỷ APP tạo ra các mảnh beta amyloid, những mảnh này có thể chồng lên nhau tạo thành mảng amyloid làm cho các tế bào thần kinh bị chết. Nguyên do chính là do các mảng này đã tạo ra các khe nhỏ trên màng tế bào nên dòng canxi qua các kênh này đã không được kiểm soát (Sinha và cs. 2000). Các mảng tơ thần kinh với các sợi xoắn kép được cấu tạo bởi protein có tên gọi tau. ở những cơ thể khoẻ mạnh, sự kết hợp này đóng vai trò bình ổn các vi mạch đưa dinh dưỡng và các phân tử từ thân tế bào đến đầu mút axon. Còn ở người bệnh AD, tau đã bị thay đổi về hoá học, do vậy nó làm cho tau xoắn với các vi sợi để tạo thành những mảng tơ thần kinh. Theo đó, sự đổ vỡ của hệ thống vận chuyển đã làm rối loạn kết nối giữa các tế bào thần kinh và làm cho chúng bị tiêu huỷ.
Một trong những chất dẫn truyền thần kinh có vai trò quan trọng trong AD chính là acetylcholine: ở người bệnh AD, acetylcholine giảm đến 90% (Whitehouse và cs. 1982). Acetylcholine tham gia vào quá trình trí nhớ và ảnh hưởng đến hoạt động của nơron của hồi cá ngựa và vỏ não, các chất dẫn truyền thần kinh khác cũng có thể tham gia vào quá trình này. ở một số người bệnh AD, nồng độ serotonin và noradrenalin thấp hơn bình thường, do vậy chúng cũng có thể góp phần vào các rối loạn giác quan và hành vi xâm kích. Các hormon này cũng có thể liên quan đến những rối loạn tâm lí khác trong những kỳ đầu của AD như trầm cảm và lo âu.
Các yếu tố môi trường
Nguy cơ mắc AD một phần là do các yếu tố môi trường mặc dù chưa xác định được chính xác vai trò của chúng trong nguyên nhân. Một trong những yếu tố nguy cơ khá rõ chính là vết thương não trong tiền sử (Mc Powell, 2001). Giả thuyết trước đây về nguy cơ phơi nhiễm do hàm lượng nhôm tăng cao đã không còn được ủng hộ, mặc dù ở Anh, việc sử dụng nước ô nhiễm nhôm có thể dẫn đến giảm sút nhận thức ở một số ít người (Altmann và cs. 1999). Hút thuốc lá được xem là yếu tố bảo vệ mặc dù có người trong số này tiền sử gia đình có người bị mất trí. Những yếu tố bảo vệ khác bao gồm thể dục, dùng lượng vừa phải rượu vang đỏ, chế độ ăn có vitamin B6, B12 và axid folic cao. Nhiều thuốc cũng có tác dụng bảo vệ bao gồm các thuốc non-steroid, các thuốc chống nôn và liệu pháp thay thế oestrogen ở phụ nữ mãn kinh.
Điều trị bệnh Alzheimer
Can thiệp dược lí
Tăng nồng độ acetylcholine:
Nếu giảm acetylcholine gây ra AD thì tăng acetylcholine đến nồng độ thích hợp có thể phục hồi được các triệu chứng của bệnh. Các thuốc được điều chế nhằm ngăn ngừa acetylcholinesterase phân huỷ acetylcholine ở khe xinap và tăng khả năng tái hấp thu ở thụ thể sau xinap (xem chương 3). Các chất ức chế acetylcholinesterase như Donepizil (Aracepx) nhìn chung có thể giúp cải thiện nhận thức trong một thời gian ngắn và dường như nó kìm hãm hơn là ngăn ngừa suy giảm nhận thức (Rogers và cs. 1998). Rất tiếc là nhiều người dùng thuốc lại có tác dụng phụ, trong số đó chủ yếu là rối loạn đường tiêu hoá và có đến 35% số người tham gia dùng thử thuốc đã bỏ cuộc (Rogers và cs. 1998). Bên cạnh đó, không phải tất cả mọi người đều đáp ứng với điều trị và điều này vẫn chưa giải thích được (Forette & Kockwood 1999).
Phương pháp thứ hai để làm tăng nồng độ acetylcholine là uống nicotine nhằm tăng tiết acetylcholine. Thực nghiệm cho thấy bằng cách này đã cải thiện được trí nhớ ở khỉ già (Buccafusco and Jackson 1991). Những người bị AD cũng có sự cải thiện một số khía cạnh về nhận thức và cảm xúc sau khi tiêm nicotine. Tuy nhiên chưa có đủ cứ liệu tin cậy chứng tỏ hiệu quả của nicotne trong điều trị AD.
Ức chế sự phát triển amiloid:
Một cách tiếp cận dược lí hoàn toàn khác đó là tìm cách phong toả sự sản sinh beta amyloid trong não thông qua việc sử dụng vacxin. Nghiên cứu thử trên chuột cho thấy vacxin có được một số mức độ bảo vệ, chống tạo mảng (Schenk và cs., 1999) và bước đầu cho thấy tiêm một loại vacxin vẫn bảo đảm an toàn trên người. Hơn thế nữa, Weiner và cs.(2000) đã phát hiện thấy đáp ứng tuy nhỏ nhưng rất quan trọng khi dùng trên chuột bằng đường nhỏ mũi: cách điều trị này có thể được chấp nhận trong khoảng thời gian dài (thậm chí suốt đời).
Tiếp cận tâm lí
Can thiệp tâm lí nhằm cải thiện tối đa chất lượng cuộc sống và các chức năng tâm lí trong diễn tiến của bệnh. Các nhóm hỗ trợ gồm những người khác nhau với những vấn đề giống nhau có thể cải thiện hỗ trợ các chiến lược đối phó trong những giai đoạn sớm  của AD (Yale, 1995). Trong những giai đoạn muộn thường có 3 cách tiếp cận trị liệu được sử dụng.
Định hướng hiện thực
Định hướng hiện thực (RO - Theo cách gọi của Holden & Woods, 1995) gồm trang bị cho người già có dấu hiệu lú lẫn những thông tin phù hợp giúp họ hiểu cẩn thận hơn về thế giới xung quanh. Có 2 dạng RO: RO 24 giờ nhằm tạo ra một môi trường với nhiều chỉ dẫn giúp cá nhân định hướng được thời gian, không gian và bản thân: những chiếc đồng hồ và lịch rất to; các chỉ dẫn nhắc nhở tên gọi của cơ sở hoặc khu điều trị  tên gọi các phù hiệu v.v. . Sự can thiệp xã hội đối với cá nhân cũng được xây dựng nhằm cung cấp những thông tin thích hợp “xin chào ngài Jones. Tom ở đây… Bây giờ bên ngoài khá lạnh, cũng giống như tháng giêng mọi khi…”. Các câu đơn giản, đặc hiệu, nhắc lại những thông tin trong ngày hoặc dùng để giao tiếp. Lớp RO gồm những nhóm nhỏ, gặp nhau trong khoảng từ 30-60 phút. Mặc dù có tên gọi như vậy nhưng buổi học tiến hành ở phòng tiện nghi, có các ghế mềm với một bầu không khí thư giãn. Lựa chọn người tham gia dựa theo khả năng, các buổi học gồm tranh luận và cung cấp thông tin, thúc đẩy trí nhớ bằng nhiều cách trợ giúp với các kênh khác nhau: từ báo chí, tranh cho đến trò chuyện v.v…
Tổng quan 21 buổi thử nghiệm RO, Holden và Wood (1995) đưa ra kết luận rằng kết quả đạt được tuy nhỏ nhưng rất quan trọng trong định hướng, so với những trường hợp không được trị liệu hoặc trị liệu không có thiết kế trước. Dường như kết quả trong những lĩnh vực khác như nhận thức hay kĩ năng hành vi cũng rất khiêm tốn mặc dù Reever & Ivison (1985) có thông báo rằng đã đạt được một số tiến bộ về khả năng tự kiềm chế sau khi có sự kết hợp giữa lớp học và RO  24 giờ.
Dù có kết quả cuối cùng như thế nào đi chăng nữa thì RO cũng có những khó khăn nhất định đối với những người định áp dụng, cụ thể là đối với những trường hợp cần nhắc nhở cho bệnh nhân ở những thông tin để gây stress. Ví dụ, rất nhiều người bệnh AD đã quên đi cái chết của người bạn đời và do lú lẫn, họ bắt đầu tìm kiếm, chờ đợi và yêu cầu được gặp người đã chết. Theo RO thì người chăm sóc phải nói cho bệnh nhân rằng bạn đời của họ đã chết. Và đây lại có thể là tin xấu, gây stress cho bệnh nhân. Rất tiếc là người bệnh sau đó lại quên và tiếp tục hỏi, tìm bạn đời đòi người chăm sóc phải phủ nhận thông tin rằng bạn đời của họ đã mất: chu trình như vậy lại tiếp tục gây stress cho cả người bệnh và người chăm sóc.
Trị liệu hiệu lực
Để khắc phụ những nhược điểm của RO, Feil (1990) đã đưa ra một dạng trị liệu khác trị liệu ‘hiệu lực’. Trị liệu này bao gồm lắng nghe và chú ý đến tất cả những sự lo sợ của người bệnh, dành thời gian để hiểu cặn kẽ những vấn đề của họ và làm cho những vấn đề này  có “hiệu lực” bằng cách đánh giá những gì họ cần phải nói. Những cuộc trò chuyện như vậy cần phải tạo cơ hội để xác định và làm thay đổi những niềm tin sai lầm, tuy nhiên đây chưa phải là yếu tố cốt lõi của tiếp cận này. Tiêu điểm là tập trung vào nghe và đáp lại các phản ứng cảm xúc  hơn là nội dung thực những gì họ nói.
Trong trị liệu nhóm, các nhóm nhỏ có thể được bố trí để thảo luận về những cảm giác khi diễn tả như tức giận, cách li hoặc mất mát (Bleathman & Morton, 1992). Feil (1990) cho rằng bằng cách từ ngữ hoá trí nhớ và suy nghĩ và hiệu lực hoá bởi nhóm, cá nhân có được cảm giác được chấp nhận. Phương pháp này nhấn mạnh đến sự cần thiết phải giải quyết những xung đột chưa được giải quyết. Nó cũng có những thành phần của trị liệu tâm lí- động thái. Khi trị liệu nhấn mạnh đến sự đồng cảm và chấp nhận quan điểm  của cá nhân về thế giới xung quanh và mang những khía cạnh nhân văn rõ rệt. Tuy nhiên cũng chưa có một nghiên cứu nghiêm chỉnh nào nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp. Những gì có được chủ yếu là dựa trên cơ sở phân tích lịch sử  trường hợp không kiểm soát được. Trong một nghiên cứu Feil (1990) thông báo rằng đã hạn chế được những cơn khóc lóc, đi lại lộn xộn sau đợt trị liệu hiệu lực, tuy nhiên không có cứ liệu về hiệu quả bền vững hoặc những lợi ích lớn hơn so với các tiếp cận khác.
Liệu pháp hồi tưởng
Có 3 dạng liệu pháp hồi tưởng (Mc Malion & Phuclick, 1964). Hồi tưởng dạng câu chuyện bao gồm tái hiện những sự kiện dễ chịu. Nhìn lại cuộc đời bao gồm tái hiện và thảo luận trí nhớ cả những sự kiện tốt và xấu, những sự kiến chủ yếu từ ý thức. Cuối cùng là hồi tưởng hào quang bao gồm tập hợp nhiều lần những tình huống gây đau khổ hoặc thất vọng. Nhìn lại cuộc đời và hồi tưởng hào quang được cho là có tác dụng hỗ trợ giải quyết xung đột trong quá khứ.
Liệu pháp hồi tưởng dựa trên mô hình phát triển của Erikson (1980) trong đó nhìn lại cuộc đời thường xuất hiện về cuối cuộc đời. Nhìn lại cuộc đời nói chung có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Trong liệu pháp cá nhân, nhà trị liệu trợ giúp cá nhân làm sáng tỏ hơn và hiệu quả hơn sự phân tích bản thân. Trong liệu pháp nhóm, các nhóm nhỏ xem xét cuộc sống của các thành viên thông qua việc sử dụng những gợi ý như các bức ảnh cũ, các buổi phát thanh hoặc truyền hình v.v… Cũng như đối với liệu pháp hiệu lực, chưa có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của liệu pháp hồi tưởng. Những người tham gia chủ yếu thích được tham gia vào nhóm hồi tưởng. Cũng có một số thông báo về  gia tăng tự đánh giá cũng như thoả mãn cuộc sống. Sau khi tham gia vào nhóm (ví dụ, Kovach, 1990). Tuy nhiên chưa có nhiều cứ liệu  chứng tỏ rằng nó hiệu quả hơn các hoạt động nhóm khác.
Thay đổi hành vi
Mặc dù những cách tiếp cận quan sát được (operant) nhằm thay đổi hành vi ở những người già lú lẫn tạo ra được sự chú ý nhất định song chưa có nhiều thông báo về việc sử dụng cũng như hiệu quả của nó. Tuy vậy những nghiên cứu đã sử dụng qui trình này cho thấy nhìn chung là có hiệu quả. Ví dụ, Burgio và cs. (1988) đã ứng dụng chương trình nhằm gia tăng việc sử dụng toilet hợp lí và giảm thiểu mức độ không tự chủ. Chương trình này bao gồm hỏi thường xuyên, đều đặn xem các cá nhân có muốn vào toilet hay không và tiếp đó là củng cố việc sử dụng toilet. Chương trình đã đạt được hiệu quả rõ rệt mặc dù các cá nhân chưa tự mình chủ động dùng toilet. Nhìn chung các thành viên tham gia chương trình đã biết tăng cường sử dụng hệ thống trợ giúp. Các chương trình khác cùng làm giảm được những hành vi đi lang thang, định hình và tăng tương tác, vận động xã hội (xem Woods & Roth, 1997). Theo Woods & Roth, thành tố cơ bản để đảm bảo cho các qui trình quan sát được đối với người già có thể không phải là “phần thưởng” cho những hành vi làm đúng. Rất có thể là việc sử dụng hệ thống chỉ dẫn trợ giúp hành vi đóng vai trò quan trọng hơn.
Một yếu tố rất cần thiết nữa trong việc chăm sóc người già sa sút trí tuệ là phải hạn chế đến mức tối thiểu những yêu cầu mang tính nhận thức đối với họ (Woods &Brid, 1999). Khi đối thoại phải dùng những câu ngắn, luôn nhắc lại. Có thể dùng thêm những trợ giúp tương thích, ví dụ như tranh ảnh. Tuy nhiên cũng cần tránh những trợ giúp gây phân tán chú ý với thông tin không tương thích. Các trợ giúp cần phải đơn giản và trực tiếp. Ví dụ, một mũi tên chỉ vào hình toalet được dán lên cửa toalet có thể hiệu quả hơn hình một người phụ nữ hay nam giới như thường thấy. Ngay cả những người sa sút trí tuệ mức độ vừa và nhẹ cũng cần đến sự trợ giúp như vậy. Bất kỳ một sự trợ giúp nào cũng cần phải được hướng dẫn và tập luyện để củng cố thông tin của trợ giúp đó. Ví dụ, mỗi khi dẫn người bệnh ra toalet, người chăm sóc có thể nói với họ trong khi đi và chỉ cho họ những chỉ dẫn, trợ giúp. Nếu ở nhà, phải đảm bảo an toàn ở mức độ tối đa, ví dụ như thay lò sưởi ga bằng lò sưởi tích nhiệt v.v…
Giúp đỡ những người chăm sóc
Chăm sóc những người bị AD tại nhà cũng tạo ra rất nhiều căng thẳng cho những người chăm sóc, nhất là khi mà bản thân  họ cũng thường là người già và sức khoẻ cũng có hạn chế. Một số hình thức hỗ trợ và giúp đỡ cũng đem lại lợi ích nhất định. Những sự trợ giúp này có thể do những người tình nguyện, dạng như Hội Alzheimer ở Anh, và những khoảng thời gian ngắn người chăm sóc được nghỉ ngơi khi người bệnh vào viện. Ngoài ra cũng có thể  có những hình thức can thiệp khác.
Trong một siêu phân tích 9 nghiên cứu được thiết kế để trợ giúp những người chăm sóc đối phó với stress, Knight và cs. (1992) đã đi đến kết luận rằng cả 2 dạng can thiệp nhóm và các nhóm đều làm giảm cảm giác nặng nề và trầm cảm.
Gallagher - Thomson và Steffen (1994)  so sánh 2 dạng can thiệp: hành vi nhận thức và tâm lí động thái trong trị liệu những người bị trầm cảm trong quá trình chăm sóc người thân cao tuổi. Cho đến giai đoạn cuối cả hai dạng can thiệp đều có hiệu quả. 71% số trường hợp đã không còn trầm cảm nữa. Tuy nhiên trị liệu động thái có hiệu quả hơn đối với những người làm công việc chăm sóc trong khoảng thời gian ngắn. Điều này có thể là do đối với những người mới vào vai trò người chăm sóc còn phải khám phá và tìm cách thực hiện vai trò. Đối với những người đã có khoảng thời gian  dài làm công việc chăm sóc thì việc luyện tập các kĩ thuật đối phó stress hàng ngày sẽ có lợi hơn.
Cách thứ 2 để giúp những người chăm sóc đối phó với stress là trang bị cho họ những chiến lược trợ giúp họ quản trị hành vi của người thân của họ một cách hiệu quả hơn. Ví dụ Pinkston và cs. (1998) đã chỉ ra cách thức mà những người chăm sóc có thể quản trị được nhiều hành vi, trong đó có tự chăm sóc, xâm kích và đi lang thang. Trên 75% số bệnh nhân có được một số cải thiện về hành vi sau khi những người   chăm sóc được tập huấn nhằm làm giảm căng thẳng

Suu tam

Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2016

Tổng quan Bệnh Alzheimer
  (FCA’s fact sheets, Out-of-Home Care Options and Hiring In-Home Help.)
Bệnh Alzheimer (AD) là một tình trạng gây ra những thay đổi bất thường trong não ảnh hưởng đến bộ nhớ và khả năng tâm thần. Alzheimer là một căn bệnh, không phải là phần bình thường của sự lão hóa. Mất trí nhớ là triệu chứng đầu tiên của bệnh. Khi bệnh tiến triển, mất khả năng lý luận, ngôn ngữ, khả năng đưa ra quyết định, và những kỹ năng quan trọng khác, dần dần làm cho chiều hướng cuộc sống cần phải có sự giúp đở của những người khác, như là thành viên trong gia đình hoặc bạn bè. Thỉnh thoảng thay đổi khó khăn trong tính cách và hành vi.
Bệnh Alzheimer tạo ra những thách thức thực sự cho người chẩn đoán và những người đảm nhận trách nhiệm chăm sóc. Điều này không có nghĩa sẽ không có niềm vui và nụ cười. AD thường dần dần phát triển, dành thời gian để điều chỉnh kế hoạch, chẩn đoán trước, và dành nhiều thời gian bên nhau.
Gần 15 triệu người Mỹ tham gia chăm sóc không lương cho người bệnh Alzheimer hoặc sa sút trí tuệ khác (Hiệp hội Alzheimer 2011 Sự kiện & số liệu). Tiến sĩ Alois Alzheimer, một bác sĩ tâm thần người Đức và bác sỹ chuyên khoa tâm thần ghi lại với việc xác định trường hợp được đầu tiên của "tiền lão suy sút trí tuệ" vào năm 1907, một tình trạng được gọi là bệnh Alzheimer.
Alzheimer là dạng phổ biến nhất của chứng mất trí ở người lớn tuổi. Từ "Alzheimer" và "mất trí nhớ" thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng hai trường hợp bệnh khác nhau. "Chứng mất trí" là một thuật ngữ có nghĩa là một người không thể hoạt động riêng cho cá nhân vì sự suy giảm kéo dài của nhiều khả năng tâm thần ảnh hưởng đến bộ nhớ, sự chú ý, và lý luận. Sa sút trí tuệ có thể được gây ra bởi nhiều điều kiện y tế khác nhau, chẳng hạn như chấn thương sọ não nghiêm trọng hoặc đột quỵ nặng. Một sồ bệnh sa sút trí tuệ khác như Lewy cơ thể mất trí nhớ, chứng mất trí Frontotemporal, sa sút trí tuệ mạch máu, và sa sút trí tuệ bệnh Parkinson 

Mặc dù nguyên nhân và tiến triển của AD không hoàn toàn hiểu rõ, bằng chứng cho thấy những thay đổi đầu tiên trong não xảy ra nhiều như 15 năm trước khi các triệu chứng của sa sút trí tuệ được biểu hiện bởi người mắc bệnh AD. Một số loại chụp cắt lớp não có thể phát hiện những thay đổi này. Tuy nhiên, công việc này chưa đủ tiến bộ để được sử dụng thực tế trong việc dự đoán người sau này sẽ phát triển bệnh Alzheimer.
Phòng ngừa bệnh Alzheimer là một chủ đề phổ biến trong các phương tiện truyền thông. Một số không thuộc bên y tế, thực hành phong cách sống một cách lành mạnh để phòng ngừa bệnh, và nói chung liên quan đến tuổi. Nhửng dấu hiệu nhưng không được bằng chứng tài liệu, như kích thích tâm thần (trò chơi não), tập thể dục (như bơi lội, đi bộ, yoga), hoạt động xã hội, và chế độ ăn uống lành mạnh (trái cây, rau và thực phẩm trong chất cao chống oxy hóa) có thể giúp phòng ngừa bệnh.
Tuy nhiên, có rất nhiều dấu hiệu cho thấy đột quỵ nhỏ ở những người mắc bệnh Alzheimer có thể làm cho các triệu chứng AD tồi tệ hơn. Để phòng chống đột quỵ chúng ta phải duy trì huyết áp khỏe mạnh, tránh bệnh tiểu đường hoặc giừ lượng đường mức trung bình, giữ lượng cholesterol thấp, và không hút thuốc là bốn điều quan trọng bạn có thể làm để giảm nguy cơ của bệnh.
Bệnh này có thể xuất hiện với tuổi trẻ như tuổi 30, nhưng thường được chẩn đoán sau khi 60 tuổi, và nguy cơ bệnh tăng theo tuổi tác. Đến độ tuổi 90 đến khoảng 40% dân số có thể bị ảnh hưởng. Di truyền học của AD rất phức tạp và kiến thức được thay đổi nhanh chóng. Ngoại trừ một phần trăm nhỏ của những gia đình chỉ một gen duy nhất gây ra bệnh, có một thành viên trong gia đình với AD làm tăng nguy cơ của bạn chỉ vừa phải. Bệnh Alzheimer là căn bệnh thứ sáu dễ dàng gây tử vong ở Mỹ
Các triệu chứng
Những người bệnh AD có thể biểu hiện các triệu chứng của bệnh từ 3-5 năm trước khi chẩn đoán. Trong thời gian này, sự thay đổi hiện ra, nhưng chưa thấy toàn diện dấu hiệu, được gọi là "suy giảm nhận thức nhẹ" hoặc MCI. Điều quan trọng là phải hiểu rằng không phải tất cả mọi người với MCI sẽ phát triển đến bệnh AD. Trong thực tế, 40-50% không bao giờ có thể phát triển bệnh. 

Vấn đề sớm thường được xem như thay đổi bình thường do lão hóa, và khi nhìn lại thì những người chăm sóc thấy rằng các triệu chứng đã xảy ra trong nhiều năm. Với trung bình, cá nhân tồn tại 4-8 năm khi được chẩn đoán, cũng có thể sống đến 20 năm. Để dễ dàng tìm hiểu những thay đổi xảy ra như quá trình tiến triển bệnh, AD được chia thành ba giai đoạn: đầu, giữa và cuối. Tuy nhiên, sự phát triển của các triệu chứng trong một cá nhân sẽ khác nhau từ người này sang người khác.
Chẩn đoán và Khoa học của bệnh Alzheimer
Hiện nay không có thử nghiệm duy nhất nào dẫn đến chẩn đoán cho bệnhAD. Bác sĩ cần để thiết lập mất trí nhớ bất thường và các mô hình của các triệu chứng như bệnh AD. Điều này đôi khi đòi hỏi phải kiểm tra bộ nhớ chuyên ngành. Sau đó bác sĩ cần phải loại trừ những bệnh khác có thể gây ra các triệu chứng tương tự. Ví dụ, các triệu chứng tương tự có thể gây ra bởi suy dinh dưỡng, trầm cảm, thiếu vitamin, tuyến giáp và các rối loạn chuyển hóa khác, nhiễm trùng, tác dụng phụ của thuốc, ma túy và lạm dụng rượu hoặc các tình trạng khác. Nếu các triệu chứng điển hình của AD được xác nhận và không có nguyên nhân của bệnh khác được tìm thấy thì có thể chẩn đoán người bệnh AD. Những bác sĩ có tay nghề cao, thì chẩn đoán này rất chính xác.
Một đánh giá về bệnh Alzheimer thường được yêu cầu bởi một thành viên gia đình hoặc người bạn thông báo các vấn đề bộ nhớ hoặc hành vi bất thường của bệnh nhân. Bác sĩ thường bắt đầu đánh giá của một lịch sử y tế bệnh và thực hiện một cuộc kiểm tra thể chất, cũng như đánh giá khả năng nhận thức của bệnh nhân tâm thần trong quá trình nhận thức, trí nhớ, phán xét, và lý luận. Cách tiếp cận này có thể giúp bác sĩ xác định xem có nên thử nghiệm thêm nữa không. Bác sĩ gia đình có thể đề nghị đưa bệnh nhân đi kiểm tra rộng hơn ở trung tâm chẩn đoán bệnh Alzheimer, bác sĩ thần kinh, mất trí hoặc chuyên gia lão khoa. Kiểm tra này có thể sẽ bao gồm một đánh giá toàn diện y tế và lịch sử, xét nghiệm máu và chụp não (MRI, PET), tiếp theo là đánh giá sâu rộng về thần kinh và bệnh học thần kinh. Một đánh giá chứng mất trí nên bao gồm các cuộc phỏng vấn với các thành viên gia đình hoặc những người khác đã tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân.
Tiến bộ khoa học nhanh chóng đang được thực hiện trong việc xác định "chỉ dấu sinh học" của AD. Dấu ấn sinh học là những phát hiện bất thường trong máu, dịch não tủy (CSF), hoặc chụp não của dấu hiệu bệnh AD. Có bằng chứng mạnh mẽ rằng các xét nghiệm đặc biệt của dịch não tủy có thể chẩn đoán hữu ích. Nó cũng có thể thấy như một dạng tinh bột, protein bất thường trong AD, trong não bằng cách chụp PET. Khi tiến tri thức xem xét nghiệm này có thể đi vào điều trị lâm sàng. Hiện nay họ không đủ khả năng cụ thể để chẩn đoán AD. Việc chẩn đoán vẫn phải phụ thuộc vào một đánh giá của các bác sĩ có tay nghề cao.
Điều trị Sau khi chẩn đoán
Không ai hoàn toàn hiểu nguyên nhân gì gây ra bệnh Alzheimer, và hiện chưa có thuốc chữa trị. Tiến bộ đáng kể đã được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu trong những năm gần đây mặc dù bao gồm cả sự phát triển của một số loại thuốc cho giai đoạn đầu của bệnh AD có thể giúp cải thiện chức năng nhận thức một lúc nào đó.
Ba loại thuốc chính, donepezil (Aricept), rivastigmine (Exelon) và galantamine (Reminyl), đã được chứng nhận có lợi trong việc cải thiện bộ nhớ, với ít tác dụng phụ, thường gây khó chịu dạ dày-ruột. Exelon là một loại thuốc dán hữu ích cho những người gặp khó khăn nuốt thuốc viên. Thật không may, những loại thuố cnày không có hiệu quả cho tất cả mọi người, nó chỉ có hiệu quả trong giai đoạn đầu và giữa của AD. Một loại thuốc, memantine HCl (Namenda) cũng quy định để giúp trì hoãn sự tiến triển của AD thường được sử dụng kết hợp với các loại thuốc trên. Bác sĩ cũng có thể kê toa thuốc để giúp giảm bớt hành vi kích động, lo lắng không thể đoán trước, cũng như để cải thiện giấc ngủ và điều trị trầm cảm.
Các loại thuốc mới được tìm thấy và thử nghiệm thường xuyên. Những người quan tâm đến tham gia thử nghiệm lâm sàng nên thảo luận về ưu và khuyết điểm với bác sĩ và gia đình của họ. Thông tin về thử nghiệm thuốc lâm sàng và nghiên cứu khác có sẵn trong tờ Alzheimer’s disease Education and Referral Center (ADEAR) and FCA’s Research Registry.
Thường đến bác sỉ để kiểm tra sức khỏe. Những thay đổi đột ngột trong tình trạng tâm thần có thể là triệu chứng chính có thể điều trị như nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI), viêm phổi, hoặc thậm chí gãy xương. Nếu bác sĩ biết bệnh nhân, họ có thể nhanh chóng nhận ra một sự thay đổi trong tình trạng tâm thần. Nhưng nếu họ được trình bày với một bệnh nhân mất trí mà họ đã chưa từng thấy trong nhiều năm thì có thể vô cùng khó khăn để biết sự thay đổi của người bệnh để có thể đưa ra cách điều trị thích hợp.
Chăm sóc Người bệnh Alzheimer
Bệnh Alzheimer được gọi là một bệnh gia đình, bởi vì sự căng thẳng mãn tính từ một người thân yêu từ từ suy giảm ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Một phương pháp điều trị hiệu quả sẽ giải quyết các nhu cầu của gia đình. Những người chăm sóc phải tập trung vào nhu cầu riêng của họ, dành thời gian cho sức khỏe của mình và nhận được hỗ trợ và thời gian nghỉ ngơi chăm sóc thường xuyên để có thể duy trì tốt trong suốt cuộc quá trình chăm sóc. Cảm xúc và hỗ trợ thiết thực, tư vấn, thông tin và các chương trình giáo dục về bệnh Alzheimer giúp một người chăm sóc cung cấp các dịch vụ chăm sóc tốt nhất cho người thân yêu của mình.
Dể nói nhưng khó làm. Nhửng người chăm sóc nói rằng, "chăm sóc cho chính bạn cũng như chăm sóc cho người thân yêu của bạn." Thường khó có thể nhìn thấy nhiệm vụ chăm sóc đang chờ đợi bạn mỗi buổi sáng.
Thông qua đào tạo, người chăm sóc có thể tìm hiểu làm thế nào để quản lý các hành vi thách thức, nâng cao kỹ năng giao tiếp và giữ người bệnh Alzheimer an toàn. Nghiên cứu cho thấy rằng những người chăm sóc có kinh nghiệm ít căng thẳng hơn và sức khỏe tốt hơn khi họ học các kỹ năng thông qua đào tạo người chăm sóc và tham gia vào một nhóm hỗ trợ (s) (trực tuyến hoặc người với người). Tham gia các nhóm này có thể cho phép những người chăm sóc để chăm sóc người thân tại nhà thời gian dài hơn.
Khi bạn đang bắt đầu là một người chăm sóc cho gia đình, thật khó để biết nên bắt đầu từ đâu. Có lẽ gần đây bạn mới nhận ra người thân cần nhu cầu hỗ trợ và không còn tự cung tự cấp cho bản thần như trước đó. Hoặc có lẽ đã có một sự thay đổi đột ngột về sức khỏe của người thân.
Bây giờ là lúc để hành động, nhờ dịch vụ và thông tin sẽ giúp bạn chăm sóc người thân tốt hơn. Bạn cần nên nhận sự hỗ trợ càng sớm càng tốt.
Vai trò của những người chăm sóc thay đổi theo thời gian khi nhu cầu của người bệnh AD thay đổi. Bảng dưới đây cung cấp những tóm tắt của các giai đoạn của AD, các loại hành vi sẻ xảy ra, và các thông tin chăm sóc và khuyến nghị liên quan đến từng giai đoạn của bệnh.
Giai đoạn đầu bệnh Alzheimer

 Chăm sóc trong giai đoạn đầu của bệnh
 Khó nhớ các sự kiện gần đầy và những cuộc trò chuyện, ngày, tháng trong tuần.
 Lập lại câu hỏi và câu chuyện giống nhau nhiều lần.
 Mất khả năng quản lý tài chính, sai lầm khi viết chi phiếu.
 Rút bỏ những tình huống trong xã hội và thờ ơ, rắc rối trong những hoạt
Trong giai đoạn đầu của bệnh AD, cả người chăm sóc và người bệnh có thể điều chỉnh để chẩn đoán và lập kế hoạch cho tương lai:
 Học hỏi: Bạn càng biết nhiều về bệnh AD, càng dễ dàng cho bạn chăm sóc người bệnh. Hãy tìm hiểu càng nhiều về giai đoạn đầu và giữa của bệnh AD- đừng nên quá lo lắng về giai đoạn cuối. Nói chuyện với những người chăm sóc cũng là một cách hiệu quả để học tập và để củng cố kinh nghiệm chăm sóc của riêng bạn. Một trong những điều khó khăn nhất để tìm hiểu là phân biệt giữa các người bệnh và người thân của bạn: đặc biệt trong giai đoạn đầu, những người chăm sóc có thể nghĩ “ông ấy làm như vậy để trả đũa tôi"Hoặc “ tại cô ấy
 Nấu ăn và mua sắm trở nên khó khăn hơn, có thể để quên chảo trên bếp đến cháy, và quên thức ăn trong tủ lạnh.
 Sự phê bình không tốt- khó tạo nên sự quyết định sáng suốt, dễ dàng bị ảnh hưởng đến người khác.
 Mất xu hướng và quên nhiều thứ, không nhớ nơi bạn cất giử đồ.
 Mất phương hướng tiếp xúc với môi trường xung quanh, dễ dàng bị lạc đường.
 Khả năng lái xe bị ảnh hưởng rất khó khăn khi lái xe ở các tuyến đường không quen thuộc hoặc ở một nơi lạ.
 Từ chối bất cứ điều gì là sai.
lười biếng.” Trong những trường hợp làm cho người chăm sóc buồn bực là kết quả của bệnh tiến triển, không phải họ cố ý làm cho người chăm sóc bị tổn thương hoặc đau buồn.
 Hỗ trợ cảm xúc: Môt chẩn đoán của bệnh AD có thể là thách thức cho cả người bệnh và người chăm sóc. Người bệnh AD có thể không nhớ hoặc không thừa nhận mình bi bệnh AD, bao giờ nói với họ đã mắc bệnh AD. Cố gắng thuyết phục họ rất vô ích mà còn gây bực bối cho người chăm sóc. Mục đích là phát sinh một hệ thống hỗ trợ cảm xúc và thay đổi cũng như vai trò của người chăm sóc và vai trò của những thách thức và cảm xúc sẽ mở rộng và thay đổi. Bệnh trầm cảm thì phổ biến với những người chăm sóc cho người bệnh AD và nên được giải quyết thích hợp.
 Vai trò của gia đình: Khi bệnh tiến triển, người mắc bệnh AD sẽ khó thực hiện vai trò của mình trong gia đình. Ví dụ, nếu chỉ có người đó trong gia đình biết lái xe, điều này sẽ rất quan trọng đối với những thành viên trong gia đình để tìm thay thế phương tiện giao thông (ví dụ, học để lái xe, tuyển dụng những người tình nguyện lái xe từ gia đình và bạn bè, sử dụng phương tiện giao thông công cộng,vv…) Nếu người bệnh AD phải trả phí tài chính cho gia đình, như vậy người khác phải giữ vai trò này.Nếu người bệnh AD thường phải chuẩn bị những bữa ăn, bây giờ là thời gian cho người chăm sóc bắt đầu học nấu ăn. Tập trung vào những vấn đề này sẽ giúp người chăm sóc chuẩn bị cho tương lai.
 Về tài chính: AD có thể là một bệnh cực kỳ tốn kém. Điều quan trọng là phải bắt đầu lập ra các chiến lược để đáp ứng nhu cầu tài chính cao trong gia đình cũng như diễn biến của bệnh. Kế hoạch tài chính bao gồm bảo hiểm ( ví dụ, sức khỏe, tàn tật, chăm sóc lâu dài, vv…) Lưu ý, Medicare không bao gồm sự chăm sóc dài hạn hoặc chăm sóc giam giữ. Tư vấn bảo hiểm y tế hiện có sẵn và miễn phí cho người cao niên. Để xác định vị trí giúp đỡ trong cộng đồng của bạn, hãy gọi Eldercare Locator tại (800) 677-1116 hoặc HICAP ở số (800) 434-0222.
 Pháp lý: Cuối cùng, người bệnh AD sẽ cần giúp trong việc chi trả hóa đơn, chăm sóc y tế, và đưa ra quyết định cá nhân như những người sẽ cung cấp chăm sóc cho họ. Văn bản pháp luật phải được hoàn thành càng sớm càng tốt trong quá trình bệnh, thậm chí trước khi chẩn đoán. Chờ đợi quá lâu có thể dẫn đến người không còn có khả năng ký kết các văn bản quy phạm pháp luật. Sức mạnh của luật sư về tài chính và sức mạnh của luật sư về Y tế (Chỉ thị Chăm sóc sức khỏe) có thể đảm bảo rằng người bệnh AD được chăm sóc bởi các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè tin cậy. Nếu không có các tài liệu này, những người chăm sóc có thể phải đi qua các thủ tục tòa án để được quyền thay mặt quyết định cho người bệnh AD. Gia đình cũng có thể mất quyền tiếp cận vào tài khoản ngân hàng. Tài liệu pháp lý rõ ràng có thể ngăn ngừa một người nào đó cố gắng tận dụng lợi thế hoặc đặt quyền yêu cầu bồi thường các nguồn tài chính cho lợi ích cá nhân của họ. Dịch vụ pháp lý miễn phí và chi phí thấp có sẵn cho người cao niên. Giai đoạn giữa bệnh Alzheimer Chăm sóc trong giai đoạn giữa
 Nổi lên những hành vi khó tính, không phải thường xuyên, bao gồm ví dụ dưới đây:
 Tức giận, tính đa nghi, phản ứng dữ dội khi gặp khó khăn và hoang tưởng (ví dụ, họ nghĩ rằng, những thành viên trong gia đình đang ăn cắp tiền hoặc đa nghi vợ hoặc chồng ngoại tình).
Trong giai đoạn giữa của bệnh AD, người chăm sóc phải chăm sóc cả ngày. Đảm bảo sự an toàn của bệnh nhân là công việc chính.Đối với bệnh nhân và người chăm sóc cần được giúp đỡ và hỗ trợ.
 Đối phó với những hành vi thách thức: Chúng ta thường sử dụng trực giác để giúp chúng ta quyết định làm gì. Thật không may, đối phó với bệnh Alzheimer và mất trí nhớ khác với phản trực giác. 

 Lặp đi lặp lại câu hỏi hoặc lời tuyên bố.
 Tình trạng không ngủ được khi mặt trời lặn hoặc suy nghĩ lung tung vào buổi tối.
 Sợ tắm.
 Ăn uống có vấn đề, chán ăn.
 Tiểu tiện không tự chủ.
 Tích trữ đồ đạc, đặc biệt là giấy.
 Bất lịch sự về hành vi tình dục.
 Hành vi bạo lục như đánh, la hét, vũ trang tự vệ.
 Cần giúp chọn quần áo và thay quần áo
 Sẽ tiến triển đến viêc nhắc nhở chăm sóc bản thân, và cần trợ giúp khi tắm, uống thuốc, đánh răng hay vệ sinh…v.v.
 Hổ trợ cảm xúc: người chăm sóc trong việc chăm sóc bệnh nhân bệnh AD thường cảm thấy cô đơn, và thường làm cho những người chăm sóc bị đau buồn và mất mát về tình trạng của người mà họ đang chăm sóc. Hỗ trợ tình cảm và phá vỡ định kỳ từ trách nhiệm của việc chăm sóc là rất quan trọng đối với sức khỏe tinh thần và thể chất của những người chăm sóc. Nên nói chuyện với bác sĩ nếu bạn cảm thấy chán nản hoặc lo lắng.
 Tạm dừng chăm sóc: Những người chăm sóc cần nghỉ giải lao, đó là "thời gian nghỉ ngơi cho người chăm sóc". Thời gian nghỉ ngơi của người chăm sóc bao gồm sự giúp đỡ trong nhà ( một thành viên khác trong gia đình hoặc người hàng xóm, bạn bè, thuê người hoặc người chăm sóc tình nguyện) và các chương trình chăm sóc ban ngày dành cho người lớn, giúp đỡ tại nhà, và ở nhà dưỡng lão ngắn. Cơ quan khu vực địa phương về lão hóa có thể cung cấp thông tin về các tùy chọn có sẵn trong cộng đồng địa phương. 

 An toàn: Quan trọng là tạo ra một môi trường an toàn và thoải mái. Một chuyên gia trị liệu có thể cung cấp tư vấn và giúp đỡ trong việc ở nhà an toàn hơn cho cả người chăm sóc và người được chăm sóc. Hãy hỏi bác sĩ và hiệp hội địa phương về bệnh Alzheimer hoặc Cơ quan khu vực Cao Niên được giới thiệu có kinh nghiệm chuyên môn trong việc sửa đổi và các thiết bị hỗ trợ. Đối với những người bệnh AD hay đi lang thang, nên báo cáo với cảnh sát địa phương, và người đó nên được
 Biểu hiện khó khăn trong lời nói và nhận thức, đặc biệt khi cố gắng nhớ tên của nhửng món đồ.
 Vần đề không gian (khó khăn tìm kiếm đường về nhà).
 Quên cách đọc, viết, và khả năng tính toán, khó khăn trong việc theo cốt truyện của chương trình TV.
 Mất phối hợp thường dẫn đến đi đứng không vững.
 Sẽ cần người chăm sóc hoặc giám sát 24 tiếng/ngày, 7 ngày/tuần.
 Thỉnh thoảng, có thể không nhận ra gia đình hoặc bạn bè.
đăng ký với chương trình trở về an toàn của Hiệp hội bệnh Alzheimer.
 Chăm sóc y tế: Người bệnh AD sẽ cần được chăm sóc cho cả bệnh AD và bất kỳ vấn đề sức khỏe khác có thể phát sinh. Sau thời gian người chăm sóc phải cung cấp tình trạng sức khỏe của bệnh nhân cho nhân viên y tế. Người chăm sóc đồng phải có tờ giấy xác nhận trong hồ sơ bệnh nhân để bác sĩ có thể nói chuyện tự do với bạn. Điều quan trọng là phát triển các mối quan hệ với các bác sĩ và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe là những người hiểu được vai trò của người chăm sóc và làm việc với người chăm sóc như một thành viên trong nhóm để cung cấp sự chăm sóc y tế thích hợp.
 Sự căng thẳng của việc chăm sóc có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn. Hãy chăm sóc bản thân. Nếu bạn cần phải nhập viện hoặc cần thời gian nghỉ ngơi, việc thay thế khẩn cấp người chăm sóc có thể được sắp xếp. Những người chăm sóc bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe có thể cần phải xem xét để lựa chọn một cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc cho người thân yêu của bạn.
 Kế hoạch cho tương lai: Có nhiều người chăm sóc muốn giữ người thân của họ ở nhà, tuy nhiên điều này không phải luôn luôn có thể. Nếu chăm sóc cần thiết hơn những gì bạn có thể cung cấp ở nhà, nên chọn chăm sóc nội trú. Nhiều cơ sở có chương trình đặc biệt cho các cá nhân bị bệnh mất trí nhớ. Thuê người đến nhà để giúp chăm sóc cho ngươi bệnh thì không phải đưa người bệnh đến sở chăm sóc nội trú

Giai đoạn cuối bệnh Alzheimer 
Chăm sóc trong giai đoạn cuối
 Mất khả năng giao tiếp.
 Không có khả năng nhận biết người thân, địa điểm hoặc đồ vật.
 Yêu cầu hỗ trợ đầy đủ trong tất cả các hoạt động cá nhân.
 Khó khăn trong việc đi lại.
 Mất đi sự vui vẻ.
 Cơ bắp có thể thu nhỏ lại.
 Khó nuốt thức ăn.
 Động kinh có thể xảy ra.
 Sụt cân.
 Ngủ suốt ngày.
 Có thể biểu hiện bằng cách ngậm một số đồ vật.
 Không kiềm chế được tiểu tiện.
 Vị trí: gia đình chăm sóc cho người thân với giai đoạn cuối bệnh Alzheimer nên xem xét chu đáo chọn một cơ sở điều dưỡng chuyên môn, hoặc cơ sở chăm sóc bệnh sa sút trí tuệ, nhửng nơi đầy đủ quản lý và giám sát có thể cung cấp thích hợp cho bệnh nhân.
 Chăm sóc đặc biệt: Các dịch vụ chăm sóc đặc biệt được hỗ trợ cho bệnh nhân trong cuối cuộc đời của họ Các dịch vụ có thể bao gồm các nhóm hỗ trợ, y tá đến thăm, quản lý và chăm sóc tại nhà. Dịch vụ đặc biệt là dịch vụ thường được dàn xếp thông qua bác sĩ điều trị, và thường không được xắp xếp cho đến khi bác sĩ dự đoán bệnh nhân có ít hơn sáu tháng để sống. Một số tổ chức chuyên giúp gia đình đối phó với những thách thức liên quan đến chăm sóc trong giai đoạn cuối.

Điều quan trọng phải biết rằng cuộc sống với bệnh Alzheimer sẽ thay đổi và đặt ra thách thức cho người chẩn đoán và người chăm sóc, nhưng không có nghĩa sẽ mất đi niềm vui. Sự tiến triển của bệnh sẽ dần dần, cung cấp thời gian cho bạn để chia sẻ, gần gũi và kinh nghiệm với xã hội. Bạn sẽ có cơ hội để quản lý các vấn đề pháp lý và tài chính trước, và điều chỉnh việc chẩn đoán để bạn có thể dành thời gian với người thân. (FCA’s fact sheets, Out-of-Home Care Options and Hiring In-Home Help.)